DLKH – Đây là bài cổ phương của danh y Trương Trọng Cảnh. Bài thuốc được nhiều danh y vận dụng, trong đó có Hải Thượng Lãn Ông, chữa trị nhiều bệnh cho kết quả rất cao.
Đây là bài thuốc bổ thận âm, giúp người bệnh âm dương bình hòa, cải thiện sức khỏe. Chữa bệnh vô sinh nam thì nó bổ thận, bồi dưỡng ngũ tạng, sinh tinh, làm cho tinh khí mạnh mẽ, rất dễ thụ thai. Chữa bệnh vô sinh nữ, nó bổ chân âm, điều hòa khí huyết – kinh nguyệt, dưỡng trứng và nuôi dưỡng dạ con (tử cung).
Một số lý luận
Tiên triết có nói: “Nhà Y mà không hiểu rõ chân tướng của tiên thái cực, không nghiên cứu tác dụng thần diệu của thủy hỏa vô hình mà không thể trọng dụng được những bài thuốc hay như Lục vị, Bát vị thì làm thuốc còn thiếu sót hơn một nữa”.
Tạng thận là quan trọng bậc nhất của cơ thể,tất cả bệnh tật của con người rốt cuộc rồi cũng liên hệ tới thận,vì thận là nguồn gốc của trăm thứ bệnh.Xét trăm bệnh gây ra không bệnh nào là không vì hỏa, mà hỏa phát ra không khi nào là không do hư, vì gốc chứng hư không khi nào là không do thận.Vì thủy là nguồn của muôn vật, hỏa là cha của muôn vật, nguồn hay cha đều căn bản ở thận cả. Hễ thận nguyên đầy đủ thì mọi thể hiện đều yên và bệnh tật không có nữa.người ta có sự sống đều nhờ vào tác dụng của âm dương thủy hỏa, mà Thận là cái rễ của âm dương thủy hỏa, nếu âm dương mất điều hòa, thủy hỏa thiên lệch, trăm bệnh sinh ra ngay, mà cách chữa cứu âm không gì bằng làm mạnh chân thủy, bổ dương không gì bằng làm ích chân hỏa, mà thận cũng vừa là thủy cũng vừa là hỏa, cho nên cứu âm cứu dương mà không tìm chủ của nguồn thủy hỏa, bỏ rơi tạng thủy hỏa, bỏ bài Lục, Bát vị thì không tìm thấy cửa tất không có lối vào, cũng như trồng cây mà muốn bỏ rễ liệu cây có sống được không?
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác có nói: “Tôi kinh nghiệm chữa bệnh đã lâu, biết rằng sự thần diệu của cổ phương không bài nào bằng các bài Lục, Bát vị, thật là thuốc thánh để bảo vệ sinh mạng, nếu mà hiểu sâu được ý nghĩa gặp từng loại bệnh mà suy rộng ra thì càng dùng thấy càng hay, đem chữa bệnh nào mà chẳng được.
“Dùng để trục tà (giải cảm) thì nó bổ chân thủy mà ra được mồ hôi.
“Dùng để tiêu đờm thì tan được chất hủ bại mà vận hóa mạnh lên.
“Dùng để khu phong thì nó sinh ra huyết mà phong tự hết.
“Dùng để tán hàn thì nó bổ chân hỏa mà âm hàn tự tiêu.
“Dùng để thanh thử thì nó thu nạp được khí về nguồn gốc.
“Dùng để trừ thấp thì nó dẹp được hết thủy tà.
“Chữa trẻ con thuần dương (hay sốt nóng) thì nó sinh thêm thiên quý để cứu bệnh không có âm.
“Chữa bệnh kinh huyết thì nó bổ cho chân thủy để tưới nhuần vào chỗ huyết khô, huyết bế.
“Chữa bệnh vô sinh nam thì nó bổ thận, bồi dưỡng ngũ tạng, sinh tinh, làm cho tinh khí mạnh mẽ, rất dễ thụ thai.
“Chữa bệnh vô sinh nữ thì nó bổ chân âm, điều hòa khí huyết – kinh nguyệt, dưỡng trứng và nuôi dưỡng dạ con (tử cung).
“Uống lúc có mang thì nó giữ vững bào thai.
“Uống sau khi đẻ thì nó bồi dưỡng thêm tinh huyết, các chứng “Phong, Lao, Cổ, Cách uống bài này cũng cứu vãn lại được. Thuốc uống lâu chân hỏa vững chắc ở đan điền thì hư phong còn đâu mà phát lên được, không phải lo sợ trúng phong nữa. Vị cam ôn thì trừ được nóng dữ, vị bổ dưỡng thì tinh huyết dễ sinh, chứng cốt chưng (âm hư sốt nóng hâm hấp), phục nhiệt (nhiệt phục bên trong) còn chỗ nào ẩn náu được, chứng lao đã thành cũng khó mà dằng dai được. Chân hỏa ở dưới đầy đủ, nguyên khí ở giữa tự nhiên lớn mạnh, sự tiêu hóa bình thường, chứng đầy bụng mà làm sao sinh được, chứng cổ trướng cũng không lo nữa. Dưới nồi có lửa thì cơm trong nồi tự nhiên chín, tinh khí dào dạt, tinh ba lan khắp bốn bên, thì chứng táo sáp, ợ nghẹn còn lo gì nữa. Chứng nặng đã có thể tiêu tan, thì chứng nhẹ dứt khoát khó mà trầm trọng được, huống hồ các loại rôm sảy nhỏ nhặt thì có khó gì. Thật là môn thuốc quý báu nhất, là bài thuốc hay nhất dể bảo vệ sinh mạng. Dùng thường xuyên thì tinh huyết dồi dào da và sắc mặt hồng hào, sức khỏe dẻo dai, gân xương rắn chắn”.
– Bài Lục vị theo cổ phương: Thục địa 320g, Hoài sơn 160g, Sơn thù 160g, Bạch linh 120g, Mẫu đơn bì 120g, Trạch tả 120g.
Phương thuốc này dựa trên nguyên tắc tam bổ, tam tả: 3 vị mang tính bổ là Thục địa bổ thận âm, Sơn thù du bổ can, Hoài sơn bổ tỳ; 3 vị mang tính tả là Phục linh tả tỳ, Trạch tả tả thận thủy, Mẫu đơn bì tả can. 3 vị tả được xếp sánh đôi với 3 vị bổ, để cùng tác dụng vào 3 tạng can, tỳ, thận. Việc sử dụng từng cặp thuốc, vừa bổ, vừa tả như vậy, tác dụng bổ các tạng mà không gây ra nê trệ.
1. Thục địa có vị ngọt tính ấm, quy kinh can, thận; tác dụng chính là quân dược, tư âm bổ thận, sinh huyết sinh tin
2. Sơn thù du có vị chua, sáp, tính ấm quy kinh can, thận; tác dụng ôn can trục phong, ích tinh sinh huyết, sáp tinh bí khí.
3. Sơn dược có vị ngọt tính bình quy kinh phế, tỳ, thận; giúp bổ hậu thiên để dưỡng tiên thiên. Hoài sơn kết hợp với Sơn thù giúp đồng bổ thận ích tinh, một ích tỳ khí, một dưỡng can huyết, hai vị đồng bổ can tỳ. Can tỳ đồng bổ giúp sinh khí huyết hoá thận tinh. Ba vị kết hợp gọi là “Tam bổ”, tuy nhiên Thục địa dùng lượng lớn nhất nên phương trọng ở bổ thận âm.
4. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, quy kinh thận, bàng quang có tác dụng chính giúp lợi thấp, thông nhĩ minh mục. Kết hợp Thục địa – bổ tả phối hợp giúp hư được bổ, tả được trọc và đồng thời làm giảm tính nê trệ của Thục địa.
5. Đan bì có vị ngọt, đắng, tính hơi hàn, quy kinh tâm, can, thận; tác dụng thanh tiết hư nhiệt, làm hạ tính ôn sáp của sơn thù du.
6. Phục linh tác dụng thẩm thấp nhiệt ở tỳ, thông thận giao tâm, hỗ trợ Sơn dược kiện tỳ. Ba vị được gọi là “Tam tả”
Tam bổ, Tam tả kết hợp, tương phản tương thành, bổ hư lại khứ tà, dĩ tả trợ bổ, trong bổ có tả giúp phương thuốc Lục vị địa hoàng hoàn tư bổ thân âm, điền tinh ích tủy.